THỜI HIỆU VÀ MỘT SỐ BẤT CẬP VỀ ÁP DỤNG THỜI HIỆU

  1. Quy định của pháp luật:

1 Khái niệm thời hiệu: :

Thời hiệu nói chung có thể được hiểu là căn cứ để xác lập hoặc xóa bỏ một quyền, bằng cách để cho một khoảng thời gian hay nói cách khác thời hiệu là khoảng thời gian để thực hiện quyền hoặc được miễn trừ nghĩa vụ.

Về mặt pháp lý, thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định. Theo Khoản 1 Điều 149 Bộ luật dân sự năm 2015 thì thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điểu kiện do luật quy định. Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan.

  1. Phân loại:

Theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, việc phân lại thời hiệu theo nội dung yêu cầu (sự việc có tranh chấp hay không), thì có 2 loại thời hiệu: thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được; Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc, người được hưởng lợi từ việc áo dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ.

a.Về thời hiệu chia di sản thừa kế: Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:

“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với  động sản, kể thừ thời hiệu mở thừa kế. hết thời hạn này thì di sản thuộc về người đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

  1. a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
  2. b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.

Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

3.Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

  1. Vướng mắc trên thực tiễn:

Tại Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 hướng dẫn:

“Trường hợp người để lại di sản thừa kế chết trước năm 1987 mà hiện nay Tòa án mới thụ lý, giải quyết tranh chấp thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được xác định thế nào?

Kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, theo quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 4, Điều 4, Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cáo hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính thì từ ngày 01/01/2017, Tòa án áp dụng khoản 1, Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời hiệu thừa kế để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự “trang chấp về thừa kế tài sản”. Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia tài sản là 30 năm đối với bất động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10/9/1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: Thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10/9/1990. Như vậy, tính đến ngày 11/9/2020, tất cả các vụ án khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản đều hết thời hiệu khởi kiện.

Đồng thời, quy định tại khoản 2 và khoản 3, Điều 623 BLDS năm 2015 thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế và thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Trong trường hợp vụ án chia di sản thừa kế đã hết thời hiệu khởi kiện, nếu trong quá trình thụ lý giải quyết, không có đương sự nào đề nghị áp dụng thời hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều 184 Bộ luạt tố tụng dân sự thì Tòa án có áp dụng thời hiệu chia thừa kế quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để đình chỉ việc giải quyết vụ án hay không? Nếu không áp dụng thời hiệu thì Tòa án có chia thừa kế không? Hiện nay vẫn chưa có Nghị quyết hướng dẫn của HĐTPTANDTC về vấn đề này nên thực tiễn giải quyết các vụ án chia di sản thừa kế chưa thống nhất.

Hiện nay BLTTDS không quy định trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, nếu xét thấy vụ án đã hết thời hiệu khởi kiện, nguyên đơn không yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện thì trong qúa trình hòa giải, Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải có giải thích quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu để bị đơn được biết và thực hiện quyền này hay không? Nếu giải thích quyền yêu cầu áp dụng thời hiệu mà việc bị đơn yêu cầu áp dụng sẽ gây thiệt hại cho nguyên đơn thì có vi phạm thủ tục tố tụng hay không? Hơn nữa Điều 70, 71, 72, 73 BLTTDS cũng không quy định các đương sự có quyền được quyền giải thích về thời hiệu khởi kiện và hậu quả của việc áp dụng thời hiệu khởi kiện.

Từ những phân tích nêu trên, đề nghị cần sớm có Văn bản hướng dẫn áp dụng quy định về thời hiệu nói chung và áp dụng thời hiệu khi chia thừa kế nói riêng.

Người viết: Võ Thị Minh Phượng – Thẩm phán TAND huyện Duy Xuyên.

 

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Thời điểm thực hiện quyền phản tố của bị đơn, những vướng mắc trong quá trình áp dụng.

1. Quy định của pháp luật: Theo quy định tại Điều 72 Bộ luật tố …

X